Cổ Đại Khó Kiếm Cơm
Đến khi trời sáng, Thẩm Hi đã khôi phục khá tốt, nàng tìm hai tấm ván gỗ, đặt tạm làm ván giường, rồi nằm đó nghỉ cho lại sức, giấc ngủ này khá tốt, có thể do cổng bị chặn nên không có người tới, lại có hi vọng nên Thẩm Hi thả lỏng thần kinh. Buổi trưa tỉnh lại, nàng lấy nồi cháo ra ăn tiếp, còn thừa lại một ít, lại để vào chỗ cũ.
Ăn mấy bữa cơm, Thẩm Hi cũng khỏe dần, nàng chợt nhớ đến nhà thúy cô, bèn trèo lên chỗ cao nhìn sang nhà bên, thi thể ba người đã không ở đó, có lẽ là bị người t a khiêng đi rồi. Nàng biết giờ nhà thúy cô không có chủ, mà tường nhà mình liền với nhà thúy cô, cũng không cao lắm nên dễ bị người từ ngoài nhảy vào được, vì vậy nàng lại mở cửa lách người ra ngoài, đóng cổng nhà thúy cô lại, lấy dây buộc chặt, trở về nàng lại nhặt thêm không ít gạch đá với gỗ vụn. Trời đã gần tối, Thẩm Hi mới vào nhà, nhặt đá chèn lại cổng. Nàng ăn hết số cháo để dành, nằm trên ván gỗ nghỉ ngơi, đến nửa đêm nàng mới dậy, vo gạo, bắc nồi lên bếp, dùng những đầu gỗ mà buổi chiều nhặt nhạnh làm củi đun, nấu cháo xong nàng múc một bát, còn thừa lại thì giấu đi như hôm qua.
Hôm sau Thẩm Hi cũng lấy lại sức, nàng ra đường nhặt được không ít đồ, giờ người chết đi nhiều, rất nhiều nhà đã biến thành vô chủ, gạch đá với đầu gỗ nơi nào cũng có. Trên đường rất vắng, cơ bản mọi người giờ ai cũng đói đến sắp suy kiệt nên không có sức lực đi lại, cũng sợ bị cướp bóc nên luôn đóng chặt cửa nhà, Thẩm Hi cũng chọn những nơi thường ít người qua lại mà đi nên không gặp nguy hiểm gì.
Nàng thấy gạch đá đã nhặt được khá nhiều, bèn trộn bùn, đắp thêm gạch lên đầu tường, đến lúc bức tường đủ độ cao khiến nàng an toàn rồi mới dừng lại. Mấy hôm sau nàng vẫn không ngừng đi nhặt thêm gỗ vụn, chân bàn ghế, song cửa sổ... về xếp đầy sân, để dành làm củi đốt, rồi mới lấy mấy khúc gỗ lớn chèn chặt cổng.
Dù làm nhiều đề phòng như vậy, Thẩm Hi vẫn không cảm thấy an toàn, mỗi khi trời tối, nàng sẽ nằm co rúm trên tấm ván giường mà sợ chuyện tối hôm trước lại xảy ra, đột nhiên có người xông vào muốn giết nàng. Khoảng thời gian này nàng thấy sống một ngày mà dài bằng một năm, chỉ đến khi đặt nhẹ tay lên bụng, cảm nhận được một sinh mạng nhỏ bé đang nằm bên trong, nàng mới tìm được dũng khí để mình sống tiếp.
Sinh mạng nhỏ này là mong nhớ hơn năm tháng của nàng, là giọt máu của Người mù để lại...
Người mù, Người mù, sao ngươi lại nhẫn tâm như vậy, bỏ lại ta cô đơn một mình tại nhân thế hiểm ác này...
Người mù...
Thẩm Hi nước mắt tuôn trào, không ngừng gọi tên hắn.
Những ngày tiếp theo, không biết có phải nơi này đã bị lục soát qua nên không ai đến chỗ nhà Thẩm Hi nữa.Hàng ngày nàng đều nửa đêm lén lút dậy nấu cơm, nhưng giờ đang vào cuối tháng bảy, trời vẫn nóng nực nên cơm để sang ngày sau sẽ thiu, Thẩm Hi không dám nấu nhiều, chỉ đủ lượng cơm một ngày ăn, đến đêm lại dậy nấu tiếp. Nàng cố gắng ăn một ngày bốn bữa cơm, cuối cùng cũng khỏe hẳn, dù người nàng nhìn vẫn rất gầy yếu, nhưng không đến mức động tí là chóng mặt thở phì phò như hôm trước.
Nàng cứ đóng cửa sống qua mấy ngày, một buổi trưa mới ăn cơm xong, Thẩm Hi bỗng nghe được tiếng đập cửa.
Thẩm Hi như chim sợ cành cong. Lại có người đến cướp lương thực?
Nàng vèo một cái nhảy xuống giường, xông đến phòng bếp cầm lấy vũ khí duy nhất trong nhà là con dao phay ra, mới nép vào sau cánh cổng, chuẩn bị nếu có người xông tới là chém một dao. Đang lúc nàng hồi hộp đến không dám thở mạnh, người ở ngoài lại gọi: “Thẩm nương tử, Thẩm nương tử có ở bên trong không? Ngươi còn sống chứ? Có tin tốt rồi, ngươi không cần trốn nữa, chiến tranh không lan đến chỗ chúng ta rồi! Trung Nhạc quốc sẽ không diệt vong, chúng ta thắng rồi! Bảy ngày trước Kiếm Thần Hoắc Trung Khê đã xuất hiện trên chiến trường, giết chết Hồng Phong. Thẩm nương tử, chúng ta không phải chịu khổ nữa rồi, triều đình đã hạ lệnh cứu trợ thiên tai, chúng ta sắp có lương thực rồi! Thẩm nương tử, ngươi có còn ở đó không?”
Nghe giọng nói, Thẩm Hi biết là Lý lão tiên sinh đến, lại nghe được ông nói về sau không có chiến tranh, Hoắc Trung Khê xuất hiện, nàng đã nhẹ cả người, sau đó là mừng đến muốn khóc. Giờ khắc này, nàng cảm thấy Hoắc Trung Khê không khác gì thần tiên giáng thế, còn vĩ đại hơn Phật Tổ Như Lai hay Ngọc Hoàng Đại đế nhiều lắm.
Nàng vui mừng hỏi lại Lý lão tiên sinh: “Thật vậy chăng tiên sinh? Chiến tranh kết thúc rồi sao?” Lý lão tiên sinh cười lớn: “Đúng vậy! Ta không lừa ngươi. Thẩm nương tử, ta thề nếu ta nói dối thì kiếp sau ta sẽ làm con trâu cho trẻ con nó cưỡi!”
Đến cả Lý lão tiên sinh cũng nói đùa, xem ra ông ấy đã vui đến sắp ngất rồi. Thẩm Hi không do dự nữa, nàng vừa lau nước mắt vừa dọn gạch đá ra khỏi cổng. Dọn một lúc lâu, rốt cuộc cánh cổng cũng mở ra, cửa vừa mở Thẩm Hi đã thấy Lý lão tiên sinh đang mỉm cười đứng trên đường, chỉ là ông đã gầy đến da bọc xương. Thẩm Hi rơi lệ, cười nói: “Lý lão tiên sinh, ngài xác định tin này là thật sao?” Lý lão tiên sinh đáp: “Là thật, tuyệt đối là vậy, ngươi xem bây giờ không phải người ta đã ra đường rồi sao?”
Thẩm Hi nhìn lại hai bên, quả thật trên đường có mấy người gầy ốm đang lung lay đi lại, trên mặt đều mang tươi cười. Lúc này nàng mới thở dài một hơi nhẹ nhõm, yên tâm trở lại. Lý lão tiên sinh báo tin cho nàng xong, cũng cáo từ: “Thẩm nương tử lát nữa ngươi vẫn đóng kín cổng lại tốt hơn, lương thực cứu tai phải mấy ngày nữa mới đến được đây, ngươi vẫn phải cẩn thận chút cho thỏa đáng.” Nói xong ông đã quay người đi, Thẩm Hi vội gọi lại, thấp giọng hỏi: “Tiên sinh, có phải nhà ngài đã cạn hết lương thực rồi không?”
Ông cười khổ: “Nhà ta sớm đã thua lỗ, chút tiền còn dư dù có mua được lương thực nhưng trong nhà đông người, lại thêm cả nhà lão bằng hữu nên có thể chống đến giờ cũng tốt lắm rồi.” Thẩm Hi nói nhỏ: “Tiên sinh, nhà ta vẫn còn chút lương thực, đến tối ngài qua đây một lát, giờ ban ngày sợ người ta thấy.” Lý lão tiên sinh quả quyết từ chối: “Không cần lo cho ta, nhà ta tùy tiện ăn cái gì lấp đầy bụng cũng được, ngươi bây giờ không phải là một người, lương thực đó ngươi để lại đi.”
Thẩm Hi kiên trì: “Tiên sinh, bản thân ta có chừng mực, ngài cứ nhận đi.” Lý lão tiên sinh biết nàng không phải người lỗ mãng, cân nhắc một lát rồi gật đầu. Ông đi rồi, Thẩm Hi lại đóng kín cổng, vui sướng chạy nửa vòng quanh sân. Trước kia khi nhắc tới vo thần, Thẩm Hi không cho là đúng, ở kiếp trước vận mệnh quốc gia đều là phụ thuộc vào quốc phòng, chưa từng tùy vào vận mệnh một con người nào đó. Dù lực lượng một người có mạnh cỡ nào cũng không thể chưởng khống được cả một quốc gia, nguyên nhân chính là võ thuật đã suy đồi, có người cả đời cũng chưa từng chân chính tiếp xúc với võ thuật, hơn nữa võ thuật ở đó chỉ là thuật, ít có võ, càng không nói đến khinh công hay nội công, những cái đó chỉ tồn tại trong tiểu thuyết. Vậy nên đối với võ học, Thẩm Hi luôn hoài nghi chứ không tin tưởng vào nó. Thế nhưng trong xã hội này, trải qua một hồi phong ba sau nàng rốt cuộc hiểu được sự quan trọng của võ lực, cũng đổi mới cái nhìn về võ thần. Con người tên là Hoắc Trung Khê này xứng đáng là một nhân vật đáng kính.
“Người mù, ngươi có nghe thấy không, không có chiến tranh nữa rồi, kết thúc rồi, Người mù...” Thẩm Hi lẩm bẩm nức nở, cười đến rơi lệ, không biết giờ nên vui hay buồn.
Buổi tối Thẩm Hi nghe ngóng xung quanh đã yên tĩnh, liền cầm cái xẻng đến trong sân lặng lẽ đào ra một túi lương thực, sau đó kéo cái túi đến bên cổng chờ Lý lão tiên sinh. Nàng đợi ở đó đến nửa đêm mới nghe tiếng bước chân đến gần, sau đó là giọng Lý lão tiên sinh vang lên khe khẽ: “Thẩm nương tử, Thẩm nương tử.” Thẩm Hi hé cửa ra nhìn, thấy đúng là ông liền nhẹ nhàng đẩy cửa ra, cũng không bảo ông tiến vào, nhanh chóng đẩy túi gạo ra rồi ý bảo ông đi mau, mới đóng kín cửa lại. Lý lão tiên sinh thấp giọng: “Thẩm nương tử, đại ân này không lời nào cảm tạ hết được”, nói xong, ông liền vác túi đi.
Lúc trước Thẩm Hi dấu rất nhiều lương thực, cả sân đều chôn kín, ăn qua mấy tháng nay cũng chưa hết một nửa, lại thêm lần trước nếu không có ông, nàng cùng đứa bé trong bụng đã mất mạng, giờ triều đình đã chuẩn bị cứu đói, số lương thực này nàng không luyến tiếc.
Lại qua hai ngày, Lý lão tiên sinh đến báo cho nàng biết triều đình đã phái người xuống, lương thực với bạc cứu nạn cũng đang trên đường, nhiều nạn dân nghe được tin cũng trở lại, ông dặn Thẩm Hi khóa cổng cẩn thận, vào lúc này không được lơ là chủ quan.
Nghe lời Lý lão tiên sinh, Thẩm Hi lập tức tìm thêm mấy khúc gỗ to chặn lại cổng, bóng tối trước bình minh dễ khiến người ta thả lỏng cảnh giác nhất, cũng dễ khiến người mất mạng nhất. Nàng một thân một mình, cẩn thận là trên hết. Thẩm Hi đếm từng ngày, chờ mong triều đình mang lương thực và bạc đến, mọi người không bị đói, mình cũng yên tâm, nhưng ba ngày sau Lý lão tiên sinh hớt hải chạy đến, đập cửa ầm ầm.
Thẩm Hi vừa đến cạnh cửa đã nghe ông gọi: “Thẩm nương tử, mau mở cửa, ta có việc gấp.” Nàng vội chạy đến, chưa kịp mở cửa đã hỏi: “Lão tiên sinh, lương thực của triều đình đến nơi rồi sao?” Lý lão tiên sinh ghé vào khe cửa, thấp giọng nói: “Thẩm nương tử, không hay rồi, có lẽ chúng ta không được cứu trợ đâu.”
Thẩm Hi giật mình, không lẽ Hoắc Trung Khê đã xảy ra chuyện, Bắc Nhạc quốc lại đánh vào sao? Nàng vội vàng hỏi: “Sao vậy? Chiến tranh lại xảy ra sao?”
Lý lão tiên sinh lắc đầu: “Không phải chuyện này.” Ông nhỏ giọng nói vào khe cửa: “Thẩm nương tử, mấy hôm nay nạn dân tràn vào trong trấn nhiều lắm, hôm trước có mấy người sốt cao đột ngột rồi thượng thổ hạ tả (nôn mửa tiêu chảy), hôm qua lại thêm gần 30 người cũng bị theo. Ta có biết sơ y thuật, nếu đoán không lầm thì nơi này đang có dịch bệnh.”
“Dịch bệnh?!” Thẩm Hi hô khẽ một tiếng, lại nhanh lấy tay bịt miệng, không để mình kêu to.
Dịch bệnh, chính là bệnh truyền nhiễm ở đời sau. Khi đó y học đã phát triển nhưng mỗi năm vẫn có người chết vì dịch cúm, sốt xuất huyết, huống chi đây là thời cổ đại, thiếu thốn thuốc thang, lại không có vacxin tiêm chủng, dịch bệnh đồng nghĩa với cái chết, hơn nữa còn là chết rất nhiều người. Thẩm Hi nhớ trong lịch sử cũng có ghi lại mấy đợt dịch bệnh lớn, chết đến mấy triệu người, hình như là dịch tả hay bệnh đen gì gì đó.
[Note: Vào khoảng từ TK XIV ở châu Á và châu Âu có xảy ra đại dịch hạch, đỉnh điểm ở châu Âu từ năm 1348 - năm 1350, giết chết từ 30 – 60% dân số châu Âu. Dịch bệnh bị lan truyền bởi cá thể trung gian là chuột, sau đó lây sang người. Các nhà sử học gọi đợt đại dịch này là Cái Chết Đen. Về sau dịch bệnh này vẫn bùng phát trở lại và đến cuối TK XIX mới biến mất]
Thẩm Hi không biết y thuật, không biết bệnh truyền nhiễm biể hiện ra sao, nhưng nàng tin lời Lý lão tiên sinh. Ở cổ đại, y học không phát triển mạnh, đại phu cũng ít nên một số người đọc sách cũng sẽ biết bắt mạch, bốc một ít thuốc trị bệnh vặt, cũng không ít người đọc sách trở thành y giả vĩ đại. Thẩm Hi biết Lý lão tiên sinh là người cổ hủ lại ngay thẳng, nếu chuyện không chắc chắn ông sẽ không nói ra.
Huống chi, từ đầu tháng sáu đã có một số người chết, đến tháng bảy dân đói càng chết như ngả rạ, hàng ngàn hàng vạn thi thể thối rữa ở bãi tha ma ngay đúng lúc tiết trời nắng nóng, rất dễ bùng phát dịch bệnh, điều này Thẩm Hi cũng tận mắt chứng kiến.