Tổ Ấm Nơi Tận Cùng Thế Giới
BOBBY
Bố tôi đã tự mua cho mình một cặp kính mới – kiểu phi công, với gọng kính mảnh mai màu hồng ánh kim. Ông đến cửa phòng tôi và đứng tạo dáng ở đó, nghịch ngợm chống một bên khuỷu tay lên khung cửa.
“Bobby, con nghĩ thế nào?” Ông hỏi.
“Dạ?” Tôi nói. Tôi đang nằm đeo tai nghe trong bóng tối, hút cần sa và nghe Jethro Tull[27]. Âm nhạc đã choán hết ý thức của tôi và tôi cần đến vài phút để quay trở lại với cái thế giới của nguyên nhân và hệ quả.
[27] Jethro Tull: ban nhạc rock của Anh, thành lập năm 1967.
“Bobby, con nghĩ thế nào?” Ông hỏi lại.
“Con không biết,” cuối cùng tôi trả lời. Ông sẽ phải cho tôi thêm thời gian để đáp lại câu hỏi đó.
Bố tôi chỉ vào đầu mình. Ông đang đứng ở chỗ sáng. Những tia sáng hàng trăm oát đang bủa vây quanh ông, xuyên quann cảnh tranh tối tranh sáng trong phòng tôi.
Tôi nghĩ gì về đầu ông à? Đó quả thực là một câu hỏi quá rộng, có lẽ vượt xa tầm hiểu biết của tôi.
“Chà,” tôi nói. Rồi bỏ lửng ở đó.
“Kính của bố,” ông nói. “Bobby, hôm nay bố có một cặp kính mới.”
Một thoáng trôi qua. Ông nói: “Con nghĩ thế nào? Nó trông có hơi trẻ so với bố không?”
“Con không biết,” tôi nói. Tôi có thể nhận thấy giọng mình nghe ngốc nghếch và trống rỗng thế nào. Nhưng tôi đành bó tay trước những câu hỏi của ông. Ông giống như một thiên thần đang đặt ra những câu đố khó hiểu.
Ông thở dài, một tiếng xì chầm chậm. “Thế thôi,” ông nói. “Bố đi nấu bữa tối đây.”
“Vâng, thưa bố,” tôi nói, hi vọng sẽ phát ra một giọng vui vẻ và hợp tác. Tôi nhẩm lại trong óc – tối nay đến lượt ông hay tôi nấu cơm? Hôm nay là thứ Ba. Đến lượt ông. Tôi đã đúng.
Sau khi ông đã rời khỏi cửa, tôi mới nhận ra những câu hỏi của ông là những câu đơn giản. Ông đã đổi cặp kính gọng đồi mồi của mình để lấy một kiểu đặc biệt hơn và muốn được ủng hộ. Đáng lẽ tôi nên theo ông vào bếp, gợi lại chuyện đó. Nhưng tôi không làm thế. Tôi bị thú vui của bản thân đè bẹp, và tự cho phép mình quay lại với âm nhạc và bóng tối.
Một lúc sau, bố tôi gọi tôi ra ăn tối. Ông đã làm món thịt bò nướng và khoai tây chiên. Ông nhấp rượu Scotch từ một chiếc cốc được trang trí hình những lát cam tròn và có múi được chia đều nhau theo những chiếc bánh xe.
Mất một lúc, chúng tôi chỉ lặng lẽ ăn mà không nói gì. Một khi im lặng bao quanh chúng tôi, chúng khó có thể bị phá vỡ. Chúng cứ dai như đỉa đói ấy. Cuối cùng, tôi nói: “Cặp kính đó trông hay đấy chứ. Ý con là con thích nó.”
“Bố nghĩ trông nó hơi trẻ quá,” ông nói. “Bố e rằng một người đàn ông ở tuổi bố trông có vẻ hơi ngớ ngẩn khi đeo một cặp kính như thế này.”
“Không đâu. Ai cũng có thể đeo kiểu này mà. Nó trông rất hay.”
“Con thực sự nghĩ vậy à?”
“Vâng,” tôi nói.
“Ừm,” ông nói. “Bố rất vui khi nghe con nói thế. Bố rất vui khi được một người trẻ tuổi góp ý về vấn đề này.”
“Quả thực là như vậy. Bố biết đấy, trông nó rất đẹp.”
“Tuyệt.”
Tiếng dao dĩa chạm vào đĩa lanh canh. Tôi có thể nghe tiếng cổ họng bố tôi nuốt thức ăn.
Ông vẫn đang nhuộm tóc hàng tuần nay. Ông đã lập kế hoạch nhuộm nó từng chút một – cứ vài ngày, ông lại nhuộm thêm một ít. Theo cách này, ông hi vọng có thể làm ra vẻ như đó là một sự thay đổi tự nhiên, như thể thời gian đã tự đảo ngược, nằm ngoài ý muốn của cá nhân ông.
Đây là giải pháp của ông – già đi trong những chiếc áo sơ mi cổ rộng và những chiếc áo gi lê da, thử mọi thứ kết hợp giữa ria mép, râu cằm và tóc mai. Tôi đã từng thấy ông trong những bức ảnh cũ thời trai trẻ, một nhạc công say xỉn, lang thang với những chiếc áo phông để lộ đôi tay vạm vỡ, đã đâm sầm vào những giới hạn tài năng của chính mình và yêu một phụ nữ nông thôn, một góa phụ hiểu biết về hạt giống và những vụ thu hoạch.
Rồi tôi chợt nhớ. Đột nhiên nó nảy ra trong óc tôi: hôm nay là ngày giỗ của mẹ tôi. Đã hai năm rồi.
Ông rót tiếp chai Ballantine vào cốc của mình và nói: “Bố hỏi con một câu nữa nhé.”
“Vâng.”
“Con nghĩ sao về một chiếc xe mới?”
“Con không biết,” tôi trả lời. “Xe nhà mình đang dùng không tốt sao?”
Ông đặt cốc rượu xuống mạnh đến nỗi làm văng cả những giọt rượu Scotch và một viên đá cỡ bằng móng ngón tay cái ra mặt bàn. “Đúng,” ông nói. “Con hoàn toàn đúng. Hoàn toàn không cần thiết phải thay đổi bất cứ thứ gì. Bố không thể đồng ý hơn.”
Chiếc đồng hồ quả lắc kêu tích tắc. Tôi nói: “Mua xe mới cũng được, bố ạ.”
“Bố đang nghĩ đến một loại xe thời trang hơn một chút,” ông nói. “Có thể là một mẫu xe nước ngoài, có mui.”
“Vâng. Tuyệt lắm ạ.”
“Kiểu xe nào thoáng gió một chút.”
“Vâng.”
Chúng tôi tiếp tục ăn. Khuôn mặt bố tôi thờ ơ và lạc quan. Ông đang loại bỏ từng sợi tóc muối tiêu. Đôi mắt ông ướt đẫm đằng sau cặp mắt oval của đôi kính mới.
Mẹ tôi đã chết dần chết mòn trước khi thực sự qua đời. Bà đã ở lì trong phòng khách, thi thoảng lắm mới lặng lẽ xuất hiện trong chiếc áo choàng tắm màu lam nhạt. Một lần, khi bà đi qua tôi ở hành lang trên đường vào buồng tắm, bà đã dừng lại để vuốt tóc tôi. Bà không nói gì. Bà nhìn tôi như thể bà đang đứng trên sân ga giữa một miền quê bằng phẳng khô ráo, còn chuyến tàu chờ tôi đang chuyển bánh để đi lên một thế giới trên vùng núi cao.
Sau khi bố tôi và tôi phát hiện ra bà, ông đã gọi điện và rồi chúng tôi ngồi bên nhau, ông và tôi, trong căn phòng khách vắng lặng. Chúng tôi để bà một mình – có vẻ đó là điều lịch sự cần làm. Chúng tôi ngồi yên lặng, chờ cảnh sát và những người trợ giúp về y tế đến. Chúng tôi không nói gì.
Trong phòng ăn, khung cảnh nông trại mùa thu vẫn không thay đổi. Đàn bò vẫn quăng xuống những cái bóng màu da cam, và đám cây vẫn nhú lên những chiếc lá vàng. Bố tôi từ tốn nhắm món thịt bò, không hề động đến những miếng khoai tây. Tôi ăn xong, mang đĩa của mình xuống bếp và xếp vào chồng đĩa. Một con ruồi lớn, óng ánh, đang mải miết lang thang trên một góc mỡ cừu vàng ươm. Những tấm rèm vẫn phô bày họa tiết hình những ấm trà màu xanh dương.
Sau đó, lúc bố tôi đã đi ngủ, tôi trở dậy và đi loanh quanh. Tôi đã dùng một viên Dexedrine[28] sau khi tan học, nghĩ rằng mình có thể dọn dẹp nhà cửa, nhưng thay vào đó tôi lại chìm đắm trong âm nhạc. Hai điếu cần sa vẫn không làm giảm bớt tác dụng của nó để tôi có thể ngủ được, vì thế sau khi bố tôi đã nốc sạch chai rượu và yên vị trên giường, tôi dạo một vòng qua các phòng, đầu tôi ong ong và nóng rực như một cái bóng đèn đang thắp sáng. Bên dưới tất cả sự lộn xộn này là bản sao hoàn hảo của một ngôi nhà, giống như phiên bản của những đồ vật thời xưa mà người ta đặt trong các bảo tàng ở những thị trấn nhỏ. Đây là phòng khách của họ, một chiếc sofa màu đỏ anh đào từng bị coi là đồ bỏ đi và một cái chậu tắm bằng đồng thau cũ chứa những khúc gỗ để nhóm lò sưởi. Đây là cửa trước, bằng gỗ sồi màu vàng, với duy nhất một ô cửa sổ bằng kính mờ mà qua đó ta có thể nhìn thấy hình dáng lờ mờ của những người lạ. Và đây là phòng giải trí, được đóng ván ô, với tấm thảm rách giống như một điểm đen trên sàn nhà lót vải sơn màu nâu.
[28] Dexedrine: Một loại thuốc kích thích gốc amphetamine, tạo cho người dùng cảm giác tỉnh táo, nếu dùng liều cao sẽ gây tác dụng phụ như: làm cho người dùng trở nên hung hăng, dữ tợn hay hoang tưởng.
Sau tai nạn, bố tôi đã cố bán ngôi nhà. Nhưng trong vòng sáu tháng, người khách có hứng thú duy nhất đã đưa ra cái giá chỉ nhỉnh hơn một nửa giá thị trường. Khu này ở Cleveland không nằm trong dự án phát triển.
Âm nhạc đang vang lên trong đầu tôi. Tôi đi dọc hành lang đến phòng bố tôi. Đầu tôi là một cái radio rực sáng – trong một thoáng tôi tin rằng tiếng nhạc sẽ đánh thức ông dậy. Tôi đứng trước cửa phòng ông, ngắm nghía những đường vân gỗ. Tôi mở cửa và rón rén bước vào.
Bố tôi ngáy ầm ầm. Từng giây cứ vun vút trôi qua theo những con số màu đỏ trên mặt chiếc đồng hồ điện tử của ông. Tôi đứng đó, chỉ đứng đó, khi thời gian trôi qua trên chiếc bàn cạnh giường. Đầu tôi đang vang lên bài Aqualung. Vào lúc đó, tôi đã hiểu được tâm lý của những kẻ sát nhân tâm thần. Tôi có thể ôm lấy đầu ông, vuốt ve mái tóc đen nhánh của ông. Tôi có thể đấm ông và cảm thấy răng ông vỡ tan ra những viên đường, rồi nghe tiếng chúng rơi lả tả xuống sàn. Tôi hiểu được sự im lặng tăm tối của thế giới, và ánh sáng cùng tiếng động lách cách phát ra bên trong bạn. Tôi có cảm giác của một bộ đồ du hành vũ trụ.
Tôi có thể đến giết bố tôi. Bây giờ, ngay lúc này, tôi có thể lén trèo lên và ấn một cái gối lên mặt ông. Ông say đến nỗi khó mà chống trả được. Tôi có thể thấy mình đang làm thế. Bộ phim đang chiếu trong đầu tôi, với nhạc nền của Jethro Tull. Một chiếc gối trắng như tuyết và cơ thể tôi đang ấn ông xuống; một sự vẫy vùng trong chớp nhoáng và tiếp đó là trạng thái lịm đi của người bị ngạt thở. Này anh bạn Aqualung, đừng lo lắng như thế.
Hoặc tôi có thể đặt một nụ hôn lên vầng trán lo âu của ông. Ông cũng say đến nỗi chẳng biết gì về việc đó nữa. Tôi có thể trèo lên giường với ông và chìm đắm vào sự ấm áp thơm như xạ, thứ mùi hòa quyện giữa rượu Scotch, mùi hương tỏa ra từ nách và nước hoa British Sterling ấy. Tôi đứng một lát bên giường ông, cân nhắc những khả năng đó.
Cuối cùng, điều tôi làm là bỏ đi. Tôi ra khỏi phòng bố tôi, đi trên hành lang và qua cửa trước để bước ra màn đêm Cleveland lấp lánh ánh sao và ánh đèn đường.
Gia đình Glover sống cách nhà tôi gần một dặm, trong ngôi nhà có những ô cửa sổ hình thoi. Một cây liễu gai trắng kẽo kẹt đu đưa trước hiên nhà, diêm dúa như một chiếc đăng ten bị đóng băng. Tôi đứng giữa những bông diên vỹ, ngắm nhìn ngôi nhà của họ. Đó là đầu tháng Sáu, những bông hoa thì thào quanh đầu gối tôi. Len lén như một tên trộm, tôi ẩn mình trong bóng tối, quan sát nhà họ. Ánh sáng hắt ra từ cửa sổ phòng Jonathan, đó là quầng sáng màu ngà lờ mờ tỏa ra từ chiếc đèn ngủ cổ uốn cong đặt cạnh giường cậu. Cậu đang đọc truyện của John Steinbeck[29]cho giờ học ngày mai, và sau đó sẽ kể cho tôi nghe. Tôi rón rén đi đằng sau một cây dâu. Ánh đèn nhà bếp hắt một hình chữ nhật dài lên thảm cỏ khi cô Alice lau thìa và những cái chén đó. Tôi không thể trông thấy cô nhưng tôi biết những động tác của cô – cô nhanh nhẹn và chắc chắn như bản thân khoa học, dù cô quan tâm đến sự hoàn hảo nhiều hơn là ngăn nắp. Những cái chảo gang luôn bóng loáng, những tờ báo Chủ nhật vẫn yên vị trong phòng khách vào một đêm thứ Tư. Nhà Glover luôn chăm chút cho nhà cửa được tương đối sạch sẽ mà không liên quan mấy đến sự gọn gàng. Mọi thứ luôn được để nguyên.
[29] John Steinbeck (1902-1968): nhà văn người Mỹ đoạt giải Pulitzer năm 1940 với tiểu thuyết Chùm nho phẫn nộ.
Tôi nán lại trong bóng tối khi cô tắt đèn bếp và đi lên gác. Khoảng một giờ nữa hay hơn chú Ned mới về nhà. Tôi len lén đi quanh đúng lúc thấy đèn phòng cô bật lên qua cửa sổ. Tôi ngắm nhìn cửa sổ phòng cô và những cửa sổ khác nữa, những cánh cửa mở vào những căn phòng trống. Đằng sau cặp cửa sổ tối đen là bóng tối lập lòe của phòng ăn, nơi bộ đồ dùng trà bằng bạc đang tỏa ra một thứ ánh sáng lấp lánh đầy lạnh lẽo. Đằng sau ô cửa sổ thứ ba, nhỏ hơn, là phòng giặt đồ, với mùi thuốc tẩy vải đặc trưng của nó. Trên gác, bóng cô Alice thấp thoáng qua ô kính cửa sổ.
Tôi chờ đợi, quan sát, cho đến khi xe của chú Ned đỗ lại. Tôi có thể thấy chú đi từ ga ra đến cửa trước, chiếc áo sơ mi trắng loang loáng ánh đèn pin, những đồng xu kêu leng keng trong túi. Ned vuốt tóc bằng keo Vitalis, mặc quần Sansabelt. Tôi nghe tiếng chú lách cách xoay chìa khóa trong ổ - một sự vừa vặn hoàn hảo. Chú tắt đèn và đi lên gác. Tôi có thể cảm thấy dáng đi của chú. Cô Alice đang đợi chú, tóc cô được buộc cao vống lên. Jonathan vẫn đọc sách trong phòng cậu, miệt mài với câu chuyện mà ngày mai cậu sẽ kể cho tôi.
Tôi ngồi giữa những bụi cây cho đến khi đèn đóm tắt hết, cho đến khi ngôi nhà ngủ yên trong màn đêm. Rồi tôi từ từ đi một vòng quanh nó, với những ngôi sao và những hành tinh đang lung linh tỏa sáng trên đầu. Phía trên cao đó, những định tinh đang sinh ra và va chạm vào nhau, tạo nên những cái hố trong thiên hà, kéo theo ánh sáng của chúng vào thế giới tiếp theo. Còn ở dưới này, trong một đêm trên trái đất râm ran tiếng dế kêu và vo ve tiếng muỗi, tôi đang đi theo một quỹ đạo với tâm là ngôi nhà của gia đình Glover.
ALICE
Bobby đã bỏ được kiểu nói đều đều như máy nhịp và chuyển sang giọng điệu trẻ con du dương. Nó thường lên giọng ở cuối mỗi câu, vì thế mỗi lời nó nói đều nghe như một câu hỏi háo hức, thăm dò. Mái tóc bù xù của nó, sau khi quy thuận cây kéo của thợ cắt tóc, đã biến thành một mái tóc ngắn trông như bị bò liếm. Một lần, khi nó đứng nhe răng cười trước cửa nhà tôi vào buổi trưa, tôi thấy rằng nó đã bôi kem che khuyết điểm màu da lên đám mụn trên mặt.
Tuy nhiên, nó không bao giờ có thể thay đổi hoàn toàn được. Nó vẫn còn một nét gì đó hư hỏng, hơi nguy hiểm – một nét gì đó thèm khát và cảnh giác. Điều đó được thể hiện rõ ở bữa tối, khi nó vét sạch đĩa của nó, và được thể hiện ở sự lễ phép không đổi của nó. Chỉ những kẻ tị nạn mới có thể lịch sự không ngừng từ sáng đến khuya như vậy. Và, thêm nữa, hình ảnh cậu bé Bobby mà nó vẫn đang cố gắng trở thành không bao giờ có thể nhảy múa được như nó.
Nó bắt đầu mang những đĩa nhạc mà nó nghĩ là tôi thích – một thứ âm nhạc du dương, nhẹ nhàng hơn thể loại mà Jonathan ưa chuộng. Thi thoảng, nó gọi với xuống từ trên phòng Jonathan: “Cô Glover? Nếu cô không quá bận thì cô hãy lên đây và nghe thứ gì đó nhé?” Hầu như lần nào tôi cũng đi lên đó. Tôi có thể bận gì được nào, nấu ăn và giặt giũ ư?
Tôi biết được một loạt những cái tên mới: Joni Mitchell[30], Neil Young, Boz Scaggs[31]. Có lúc tôi chỉ ngồi nghe nhạc suông với hai đứa. Có lúc, khi một bài hát sôi động cất lên, tôi nhận lời mời khiêu vũ của Bobby.
[30] Joni Mitchell (sinh ngày 7 tháng 11 năm 1943): nữ ca sĩ, nhạc sĩ người Canada.
[31] Boz Scaggs (sinh ngày 8 tháng 6 năm 1944): ca sĩ, nhạc sĩ, tay guitar người Mỹ nổi tiếng trong thập niên 70.
Vũ đạo của nó quả là tuyệt vời. Cảm nhận về nhịp điệu của nó không thể nào bắt nguồn từ những mái đua đá hoa cương và những hàng rào cây hoàng dương ở Cleveland được. Khi khiêu vũ, nó quả thực là một người độc đáo – hông nó lắc lư với vẻ tự tin khêu gợi mang nét duyên dáng hơn là gợi tình, và tay chân nó thực hiện những động tác nhanh nhẹn, đáng ngạc nhiên qua cái không gian chật hẹp trong phòng con trai tôi. Khi bài hát kết thúc, nó cười và nhún vai, như thể khiêu vũ là một lời pha trò nhạt nhẽo đáng xấu hổ. Nó đã quay trở lại, một cách rõ rệt, với hình ảnh quen thuộc mà nó vẫn đang cố gắng tạo ra. Đó là hình ảnh những cậu bé ngoại ô xanh xao thường được các bà mẹ ưa thích.
Đôi khi Jonathan miễn cưỡng nhảy cùng chúng tôi, đôi khi nó hờn dỗi ngồi thu lu một chỗ, áp đầu gối vào ngực. Tôi không phải kẻ ngốc – tôi biết không một cậu bé mười lăm tuổi nào lại muốn mẹ mình tham gia vào cuộc sống bên ngoài xã hội của nó. Nhưng Bobby quá kiên quyết. Hơn nữa, Jonathan và tôi đã luôn là bạn tốt của nhau, bất chấp mối quan hệ máu mủ của chúng tôi. Tôi cho rằng việc mình chấp nhận chút năng khiếu của Bobby về âm nhạc và khiêu vũ chẳng có gì là tai hại cả. Bản thân tôi cũng từng hơi phóng túng ở độ tuổi của Jonathan, cách đây không lâu lắm.
Jonathan đã nuôi tóc dài gần đến vai, chẳng đếm xỉa gì đến quy định về cách ăn mặc ở trường. Nó khâu những miếng vá sáng màu lên quần jean và nhất định mặc chiếc áo khoác da cũ của Bobby, ngay cả khi phần khuỷu tay đã bị rách. Lúc ở nhà, nó thường im lặng. Đôi khi sự im lặng của nó là do hờn dỗi, đôi khi chỉ đơn giản là nó không có gì để nói. Dù đã rất cố gắng, nhưng Jonathan không thể biến mình thành một kẻ xa lạ đối với tôi. Tôi hiểu nó quá rõ. Nó khiêu vũ lóng ngóng và vụng về hệt như bố nó vậy, và cái tính cáu kỉnh xấc xược mà nó nhiễm phải cũng chỉ là hời hợt mà thôi. Khi không để ý, nó sẽ tự động rơi vào sự phục tùng mà không hề định thế. Nó sẽ cười trước khi nó nhớ ra là mình phải cau có.
Một đêm tháng Giêng, Bobby gọi tôi lên để nghe đĩa nhạc mới của Van Morrison. Tôi ngồi trên sàn với bọn trẻ, gật gù theo điệu nhạc. Bobby ngồi khoanh chân và thẳng lưng ngay bên trái tôi, như một tín đồ Yoga đang ngồi thiền. Jonathan ngồi xa hơn, khom mình hờn dỗi, đôi vai so lại phía trên đầu gối.
“Hay đấy,” tôi nói. “Cô thích anh chàng Van Morrison[32] này.”
“Van the Man[33]?” Bobby nhe răng cười. Đôi khi những lời nói của nó vẫn còn khó hiểu, dù nó chú ý kĩ lưỡng đến đâu. Tôi thường chỉ cười và gật đầu, như cách tôi sẽ làm với một người nước ngoài nói thứ tiếng Anh tuy quen thuộc nhưng rất khó nghe.
Có những lúc, ngay cả khi nó ăn nói ấp a ấp úng, tôi vẫn hiểu được Bobby. Nó là một người nước ngoài đang nỗ lực để được đồng hóa. Chẳng phải chính tôi đã bị đưa đến một nơi lạnh lẽo, nơi mà hầu hết phụ nữ ở tuổi tôi và có hoàn cảnh như tôi đều thừa cân và không được học hành đến nơi đến chốn sao? Nhiều năm trước, khi tôi vẫn còn đang cố gắng hòa nhập, những người phụ nữ ở PTA[34] và hội nhà thờ đã tặng tôi công thức làm món kem từ bánh pudding và những thanh kẹo, món xúc xích Đức nhúng trong mù tạc và mứt nho. Tôi không thể bực mình với Bobby vì những khó khăn mà nó gặp phải khi cố gắng tuân theo những lề thói của địa phương.
[32] Van Morrison (sinh ngày 31 tháng 8 năm 1945): ca sĩ, nhạc sĩ người Bắc Ireland, nổi tiếng với sự bướng bỉnh và phong cách độc đáo.
[33] Van the Man: biệt danh mà các fan dùng để gọi Van Morrison.
[34] PTA: Hội Phụ huynh học sinh.
“Van cũng khá đấy,” Jonathan nói. “Nếu mẹ thích thể loại này.”
“Anh ta thuộc thể loại gì?” Tôi hỏi.
“Ồ, nhẹ nhàng, mơ mộng. Một gã đàn ông tốt hát về tình yêu dành cho một phụ nữ ngoan.”
“Mình không biết, Jon,” Bobby nói. “Anh ta, cậu biết đấy, khá hơn thế chứ?”
“Anh ta cũng được,” Jonathan nói. “Chỉ hơi ẻo lả một chút thôi. Mẹ, mẹ có muốn con mở cho mẹ nghe thứ âm nhạc thực thụ không?”
“Loại này có vẻ đủ thực thụ rồi đấy chứ,” tôi nói.
Jonathan nhìn Bobby, nụ cười của Bobby đã trở nên lo lắng và gượng gạo. “Đó là điều mẹ nghĩ thôi,” Jonathan nói. Nó nhổm dậy và gạt kim khỏi đĩa hát khi bài hát còn chưa kết thúc. Nó lôi một cái đĩa khác ra khỏi bộ sưu tập được cất trong một loạt những cái thùng gỗ màu cam xếp thành hàng kê sát tường.
“Đây là Jimi Hendrix,” nó tuyên bố. “Tay guitar đã khuất vĩ đại nhất thế giới.”
“Jon,” Bobby nói.
“Mẹ sẽ thích loại nhạc này, mẹ ạ. Thật đấy. Con sẽ chỉnh âm lượng lên một chút, vì mẹ cần phải mở nhạc khá to khi nghe Jimi.”
“Jon,” Bobby nói. “Mình không biết liệu…”
Jonathan đặt kim vào mặt đĩa hát, và căn phòng vỡ òa trong tiếng guitar điện tử. Chúng ré lên inh ỏi như những con thú bị tra tấn. Một chuỗi bass thình lình vang lên, ồn ĩ và dai dẳng đến mức tôi cảm thấy gai gai nơi xương sống. Tôi có cảm giác tóc mình đang bị rối tung.
“Hay không ạ?” Jonathan hét lên. “Jimi là tuyệt nhất.