Charlie Bone 7: Charlie Bone Và Cái Bóng Xứ Badlock
Làn hơi nước màu xanh lá cây
“Charlie Bone, tao ghét mày!”
Cơn giận thình lình nổ tung của Benjamin không giống tính nó chút nào, đến nỗi Charlie chỉ đứng đực ra, sửng sốt dòm thằng bạn.
“Mày lúc nào cũng thế,” Benjamin thét toáng. “Mày luôn làm mất chó của tao. Lần trước nó suýt bị chết đuối, lần trước nữa khi thầy bùa tới thì...”
“Benjamin Brown. Bình tĩnh coi,” Ông cậu Paton quát.
Miệng Benjamin ngậm tịt lại thành cái mím môi dỗi hờn. Gương mặt xanh xao của nó chuyển thành đỏ tía vì tức giận, mắt đẫm nước.
Charlie đau khổ nhìn chằm chặp xuống chân. “Mình xin lỗi, nhưng mình đã cố mang Hạt Đậu về cùng với mình, mình đã cố thật mà.”
“Cậu thấy nó à?” Benjamin suýt nữa thì nghẹn chính lời của nó. “Làm sao cậu ra được còn nó thì không? Nó bị kẹt ở nơi ghê rợn đó rồi... và... và...”
Ông cậu Paton đặt tay lên vai Benjamin và nhẹ nhàng đẩy nó về phía nhà bếp. “Nào, ngồi xuống đất đã, tất cả. Chúng ta cần bàn thảo mọi việc thật cẩn thận nào.”
Một giọng gióng giả từ phòng khách vọng ra. “Xời, còn làm gì được nữa?”
“Tôi nghĩ đây là âm mưu quỷ quyệt gì đó của bà, có phải không Grizalde?” Ông cậu Paton trả miếng.
“Của ta?” vẫn cái giọng ai oán đó chõ ra. “Ta chả biết gì với cái gì về nó sất. Bức tranh bọc giấy kín mít. Làm sao ta biết Charlie sẽ nổi cơn tọc mạch?”
“Bà đã biết hết,” Ông cậu Paton làu bàu. Lùa tất cả vào nhà bếp xong, ông đóng sầm cửa lại.
“Để ta làm ít bánh sandwich,” ngoại Maisie nói bằng giọng êm ru, tỉnh rụi của mình.
Tất cả mọi người ngồi vào bàn bếp trong khi ngoại Maisie bắt đầu xẻ bánh mì. Ông cậu Paton bước tới bước lui, hết ngắt cằm lại gãi đầu.
Charlie nhìn Benjamin đang ngồi chàu bạu đằng cuối bàn. “Ừ... nếu tất cả muốn biết.”
“Dĩ nhiên muốn chứ. Chính vì vậy mà bọn này ở đây,” Fidelio nói.
“Quái lạ lắm,” Charlie bắt đầu, liếc them cái nữa về hướng Benjamin. “Tớ đang đứng dưới đó, nhìn vào bức tranh thì tớ cảm thấy hình như mình bị kéo về phía nó. Dù nó bọc kín, nhưng tớ nghe thấy tiếng động từ bên trong phát ra... tiếng gió.”
“Gió?” Ông cậu Paton dừng bước và đi lại ngồi xuống bên bàn.
“Tiếp đi,” Olivia thúc ép.
“Thế là tới tháo giấy bọc bức tranh ra, chỉ tháo chút thôi, rồi thì bất thình lình tớ đã ở đó. Tớ hầu như không chu du gì hết. Cứ như bức tranh thò ra hút tới vô vậy.” Charlie nhìn quanh những gương mặt đang chờ đợi. Ngay cả Benjamim cũng đang nhìn trân trối vào nó.
“Ừ,” Ông cậu Paton nói, “Rồi sao?”
“Sau đó con gặp một người khổng lồ.”
“NGƯỜI KHỔNG LỒ!” tất cả cùng thốt lên, kể cả ngoại Maisie, bà lại ré lên cái nữa do vô tình sập của tủ lạnh ngón tay mình.
“Đại loại là người khổng lồ,” Charlie chữa lại. Nó bắt đầu kể cho mọi người nghe về NGÓN CÁI DỊ và đội quân quỷ lùn, về đuôi trụi và bạch dơi, về pháo đài đen trên núi, và cuối cùng, về việc HẠT ĐẬU đã xuất hiện như thế nào và con bướm đêm của Charlie trốn trong tai của HẠT ĐẬU ra sao.
Trong suốt quãng thời gian dài Charlie kẻ chuyện không một lời nào xem ngang lời nó, và khi nó kể xong, một bầu im lặng sâu thẳm rơi tòm xuống căn phòng, dường như không ai có ý muốn phá vỡ sự im lặng ấy, cho tới khi Benjamin nói, cực khẽ, “Điều gì sẽ xảy ra cho HẠT ĐẬU nếu đội quân quỷ lùn muốn bộ da của nó?”
Trước khi ai dám đưa ra lời suy đoán, ngoại Maisie đặt một đĩa sandwich thật to lên bàn, bảo, “Ăn chút gì đi, mấy con.”
“Hy vọng cái này cũng thích hợp với tôi,” Ông cậu Paton nói, nhốn lấy một miếng bánh sandwich kẹp táo và hạt óc chó phồng cả ra một bên. “Charlie,” ông tiếp, “Con vừa nói cho chúng ta nghe là con đã thấy một pháo đài ở xứ Badlock.”
“Ở xa xa.” Charlie nói bằng cái miệng đầy nhóc phó mát và dưa chua. “Pháo đài của tên thầy bùa. Chỉ nhìn thôi con đã nổi da gà lên rồi.”
“Hừm.” Ông cậu Paton vuốt ngược lọn tóc đen mà ông suýt cắn chung với bánh mì ra sau. “Ta thấy xem ra tên thầy bùa Harken lại định giở trò gì đây.”
“Sao hắn giở trò được ạ,” Fidelio cãi lại. “Charlie và các bạn khác tống cổ hắn đi khi họ niệm chú xung quanh cái cây Nhà Vua rồi mà.”
“Chắc chắn hắn đi rồi,” Olivia hét ầm, nhảy choi choi tại chỗ nó đang ngồi, “bởi vì mẹ của Charlie đã được cứu và... và ba của nó đã tỉnh trí... rồi mẹ của Joshua, mụ phù thủy á, đã biến mất.”
“Và hắn không còn sống ở cửa hàng bách hóa Vương Quốc nữa,” Benjamin xác nhận với chúng, “bởi vì ba mẹ tớ đã gặp người chủ mới khi đi mua sắm ở đó rồi, ba mẹ tớ bảo ông ấy hoàn toàn bình thường, có điều hơi lên ký, theo ý mẹ là vậy.”
“Tuy nhiên,” Ông cậu Paton quay qua Charlie. “ Cái bóng trong bức chân dung Nhà Vua vẫn còn đó chứ?”
Charlie thú thật là nó vẫn còn ở đấy, trong bức chân dung treo trong phòng Nhà Vua ở Học viên Bloor. Charlie hay cố đi vô đó, nhưng luôn luôn có một cái bóng đen đằng sau Nhà Vua ngăn Charlie gặp tổ tiên lẫy lừng của mình.
“Vậy là ta chắc chắn rồi,” Ông cậu Paton nói.
Olivia nhướng long mày lên. “Nghĩa là sao, thưa ông Yewbeam?”
Ông cậu Paton thở dài. “Có nghĩa là, Olivia cưng, rằng nếu có một cái bóng trong bức chân dung Nhà Vua, thì vẫn có một cái bóng ám ảnh trong cuộc sống của chúng ta... nó rất yếu,” ông nói thêm khi quan sát vẻ mặt lo lắng của bọn nhỏ, “nhưng dù sao nó cũng chỉ là một cái bóng thôi. Ta cảm thấy dường như ai đó vẫn còn liên lạc với tên thầy bùa Harken, do đó mà bức tranh mới được mang tới đây, và cung cách lạ đời của cuộc hành trình vô xứ Badlock của Charlie.”
Ông cậu Paton thấy năm cặp mất mở căng đang dán vô mình một cách mong đợi hơn là hoảng hốt. Nhận thấy mình nên nghĩ ra cái gì đó tốt hơn, ông nói, “Nhưng người đó là ai, hay cái gì, hoặc tại sao... ta ko thể hiểu được. Trừ phi, “ông gãi cằm,” trừ phi có ai đó sử dụng Gương Thần.”
“Gương Thần của bà Amoret đã bị nứt khi Joshua đánh cắp nó từ tay con rồi,” Charlie thủng thình nói.
“Có lẽ nó đã được sửa lại,” Benjamin nêu ý kiến khi trong nó ước gì mình xua đi được hình ảnh con chó đói meo, bị xích vào một khối đá và tên quỷ lùn Ngón Cái Dị đang cầm cái kéo bự tổ chảng, trờ tới.
Gương Thấn Amoret vẫn chưa được sửa. Mụ Tilpin, tức cô Chrystal hồi đó, tuy là phù thủy nhưng mụ cũng có những hạn chế nhất định. Mụ đã cố thử mọi bùa chú mục có thể tìm thấy trong cuốn Những Bùa mê và Thấn chú Chọn lịc của Steffania Sugwash (quyển sách mụ được thừa kế từ ông cụ kỵ của mụ, Silas Sugwash khét tiếng), tất cả đều vô hiệu. Vì vậy mụ quyết định chiêu nạp một số học trò được ban phép thuật của Học viện Bloor vô một lớp học cuối tuần, ở đây mụ kỳ vọng sẽ kết hợp những tài phép đặc biệt của bọn chúng lại để sửa chữa Gương Thấn Amoret quý báu nhưng đã hư hỏng một cách đáng buồn.
Cùng sự phò tá của Manfred Bloor, mụ Tilpin đã xoay sở trốn dưới tầng hầm Học viện Bloor. Mụ sống tại đấy với con trai, Joshua – cái thắng này dạo gần đây haygắt gỏng, phát cuồng mỗi khoảnh khắc phải chui nhủi trong hai căn phòng bẩn thỉu ẩm thấp cùng bà mẹ luôn tụng kinh ề ề, đốt thảo dược trong tô sắt và thỉnh thoảng lại còn bắt nó nhảy chung với bà ta những vũ điệu kinh hồn. Nhưng bà ta là mẹ nó, và nó không trách móc bà ta - ối không đâu nó hận là hận Charlie Bone, kẻ đã khiến mẹ nó phải chịu cảnh giấu mình; Charlie, kẻ đã đánh cắp Gương Thần Amoret và khiến cho Joshua phải làm bể gương.
Chẳng có nhiều đứa trẻ chọn tiêu pha những buổi chiều thứ Bảy của mình trong căn phòng đầy âm khí dưới tầng hầm trong căn phòng đầy âm khí dưới tầng hầm Học viện Bloor, nhưng Dorcas Loom và chị em sinh đôi nhà Branko, Idith và Inez, là bọn hâm mộ cô Fairy Tilpin, như chúng thích gọi mụ như vậy, lại làm thế. Tên gọi này của mụ đã có thời rất hợp linh, nhưng kể từ khi mụ Tilpin liên lạc với tên thầy bùa Harken thì không thể còn thế nữa. Dĩ nhiên Joshua cũng tham dự lớp học, nhưng thành viên cuối cùng của nhóm, Dagbert Endless, thì ít hăng hái nhất. Trong khi bọn khác nhoài cả người qua bàn, mê mẩn lắng nghe mụ Tilpin thì Dagbert lại thích tha thẩn vô những xó tối. Thỉnh thoảng nó liếc nhìn nhúm người lèo tèo kia bằng vẻ mặt ngờ vực không che giấu. Điều này khiến mụ Tilpin sôi máu, nhưng mụ chưa lần nào phê bình Dagbert, bởi vì mụ biết nó là đứa hung mạnh nhất trong tất cả bọn trẻ ở đây, và nếu mụ mà mang được thầy bùa Harken trở về thế giới này thì Dagbert sẽ là một đồng minh vô giá.
Hôm nay, mụ Tilpin đang cảm thấy lạc quan cực kỳ. Bọn oắt con đã sẵn sàng phát huy tài lực. Mụ cất quyển Những Bùa mê và Thấn chú Chọn lọc của Steffania Sugwash vào một hộc tủ và khóa lại bằng chiếc chìa khóa nhỏ bằng vàng mà mụ luôn giữ trong túi áo.
“Á á! Hôm nay cô không dạy chúng em về Steffania sao?” một trong hau đứa sinh đôi nhà Branko khiến cho một chiếc ghế khẳng khiu bay lảo đảo qua phòng.
“Nóng nảy sẽ không đưa ngươi đi tới đâu,” mụ Tilpịn mắng. “Ai đã làm vậy?”
“Em,” đứa sinh đôi vừa làm nhận.
“Ừ, nhưng ngươi là đứa nào trong hai?”
“Cô mà không nhận ra được à, cô T?” Giọng nói từ trong bóng tối bên cạnh một cái tủ to lù lù vọng ra. “Thế mà em tưởng cô biết tất cả mọi thứ cơ chứ.”
Mụ Tilpin quyết định lờ tịt Dagbert đi. “Nếu ngươi không nói cho ta biết ngươi là đứa sinh đôi nào thì bài học kết học tại đây.”
Hai chị em sinh đôi nhà Branko ngồi sát vào nhau, giương mắt dòm mụ Tilpin bên dưới mảng tóc đen thui chạy ngang qua trán. Hai bộ mặt trắng bợt như sứ không biểu thị tí ti cảm xúc nào, nhưng rồi một trong hai đức bất thần ré lên, “Inez, thưa cô Fairy Tilpin, em là Inez.”
“Không phải, mày là Indith,” Dagbert vặn vẹo.
Đến đây thì sự việc đã đi quá xa. “Dagbert Endless, nếu ngươi không thôi phá lớp đi, thì ta sẽ không có giải pháp nào ngoài đuổi ngươi.”
“Đuổi thì đuổi.” Dagbert bước về phía những tấm ván gãy nát dung để làm cửa cho cái được-gọi-là lớp học.
“Dừng lại!” mụ Tilpin ra lệnh.
Dagbert đã ra tới cửa, nghếch mắt dòm lại.
Mụ Tilpin đảo mắt gớm ghiếc lườm thằng bé đang làm mặt câng câng. Thằng ranh này bốc mùi cá tanh lòm, mặt xanh rới như tàu lá, còn tóc thì dài lều nghều khiến đầu óc mụ liên tưởng tới rong biển. Nhưng mụ cần nó.
“Ta đã không nói ngươi bị đuổi,” mụ Tilpin nói xó hơi hám phỉnh nịnh. “Ta chắc chắn chúng ta sẽ hòa thuận nếu chúng ta cùng cố gắng hơn. Có một vật ta muốn chỉ cho riêng mình ngươi coi. Dagbert.”
“Tại sao là Dagbert?” Joshua thắc mắc.
“Ờ, cả các ngươi nữa,” mẹ nó bảo, đoạn với vẻ gây chú ý đầy kịch tính, mụ thò tay xuống gầm bàn và lôi ra một tấm gương lồng khung kim loại quý sang lập lánh. Giơ ra cho từng đứa một cảm nhận ánh sáng chói lóa từ mặt gương bóng ngời, mụ tuyên bố, “Gương Thần Amoret.”
“Nó bị nứt,” Dagbert nhận xét.
“Chính xác,” mụ Tilpin mỉm cười.
“Cô có ý gì khi nói... chính xác?” Dorcas Loom hỏi bằng giọng lè nhè của nó.
Mụ Tilpin không hoàn toàn vô cảm. Mụ cảm thấy tội nghiệp cho cái con Dorcas mặt phèn phẹt đỏ gay và mái tóc xoăn tít thò lò kia. “À, hừ, lý do ta chỉ cho các ngươi Gương Thần này là bởi vì nó bị nứt. Ta nghĩ nếu kết hợp tài phép phi thường của chúng ta lại, thì chúng ta sẽ có thể, và sẽ có khả năng sửa nó.” Mụ đặt tấm gương lên bàn, hể hả nhận thấy Dagbert đã tiến lại gần hơn.
Ba đứa con gái háo hức cúi rạp người xuống bàn và ngó chòng chọc tấm gương bạc. Đinh ninh bóng mình sẽ được soi vào gương, bọn chúng choáng sốc khi nhìn thấy một màn sương khói nhiều màu lờ mờ trên bề mặt.
“Giống như nước,” Inez bình phẩm.
Dagbert tiến lại gần hơn và nhìn qua vai Joshua.
“Sao chúng em không nhìn thấy mình trong đó,” Dorcas hỏi.
“Bởi vì các ngươi không có ở đó,” mụ phù thủy lầm rầm.
Dagbert chĩa tia nhìn ngờ vực vào mụ và nói rành rỏ. “Chúng tôi ở đây. Cho nên hình chúng tôi phải ở trong đó chứ.” Nó chỉ vào tấm gương.
“Ờ. Nhưng đây là Gương Thần Amoret,” mụ Tilpin đáp. “Ta thấy rằng ngươi không biết câu chuyện này Dagbert. Ta sẽ làm ngươi hài lòng ngay. Cách đây chín trăm năm, Vua Đỏ, mà tất cả nhưng người trong căn phòng này công nhận là tổ tiên của mình, đã...”
“Không phải là tổ tiên duy nhất,” Dagbert chỉ ra.
“Suỵt!” mấy đứa kia nhắc.
Mụ Tilpin tiếp tục như thể sự phá ngang không hề hiện diện, “... có mười người con. Bà Lilith, con gái cả của Người cưới thầy bùa Harken và ta là hậu duệ của sự kết hôn này.”
“Húú-uu!” Dagbert huýt sáo.
“Bà Amoret, con gái út của Nhà Vua, cưới một...” mụ Tilpin ngúc ngoắc những ngón tay trắng trợt của mụ trên không, “một gã khổng lồ, ta tin thế.”
Dagbert lại huýt sáo, nhưng tất cả lờ nó đi.
“Nhà Vua làm cho bà Amoret một tấm gương, một tấm Gương Thần có thể giúp bà ta chu du. Bà ta chỉ việc nhìn vào Gương Thấn và nghĩ đến người mà bà ta mong ước thấy, và thế là, bà ra đã ở bên cạnh họ rồi.”
Đến đây thì Joshua kể tiếp câu chuyện mà đến bây giờ nó đã thuộc nằm lòng. “Nhưng bà Amoret chết và thầy bùa Harken thừa kế Gương Thần.”
“Thật không? Có thật ông ta thừa kế Gương Thần?” Dagbert khịt mũi một cái, ra điều không tin. Đôi mắt xám của mụ Tilpin quắc lên. “Đúúúng! Thừa kế!”
“Tao cầu cho mày đừng phá bĩnh nữa, Dagbert,” Idith càu nhàu. “Mày làm phiền tụi tao nhiều quá.”
“Thế thì xin lỗi!” Dagbert nhún vai và bước đi.
“Khoan!” mụ Tilpin ra lệnh. “Ta đã đưa thầy bùa Harken trở lại bằng cái này.” Mụ chộp lấy tấm gương và giơ lên.
“Nhưng Charlie Bone đã lấy được, bọn ta đã đánh nhau và tao làm bể nó,” Joshua tiếp, “rồi sau đó Charlie tìm ra thần chú đưa thầy bùa Harken trở về xứ Badlock.”
“Và ngài vẫn ở đó cho tới khi Gương Thần được chữa lành,” mụ Tilpin nối lời. “Nhưng chúng ta sẽ làm được, phải không bọn trẻ? Ta và các ngươi hợp lực để thầy bùa Harken có thể lại một lần nữa bước đi cùng với chúng ta.”
Bọn chúng ngước lên nhìn xoáy vô người phụ nữa nước da tái mét, lông mày rậm dày, người đã từng là một cô giáo xinh đẹp tóc vàng dễ mến. Tóc mụ bây giờ suôn đuột không còn màu sắc, đôi mắt dề lên những quầng thâm, thậm chí cả cái miệng của mụ cũng rúm lại thành một đường kẻ tím ngắt. Lẽ nào đây là điều xảy ra khi người ta chịu nhượng bộ làm phù thủy? – Đám con gái thầm hỏi.
Dagbert Endless ngọ nguậy muốn đi ra phía cánh cửa tạm. “Tôi dìm chết người,” nó nói, “tôi không thấy mình có thể vá tấm gương đó bằng cách nào.”
“Nhìn đây!” mụ Tilpin ra lệnh, vung vẩy tấm Gương Thần một cách vô vọng. “Hãy kinh ngạc đi! Dagbert Endless! Hãy kính sợ, hãy sửng sốt, hãy choáng ngợp.”
Dagbert vâng lời mụ ta bằng một cái liếc tò mò về phía tấm gương lồng trong khung quý. Rồi nó nhìn thêm cái nữa. Mắt nó căng tròn ra, quai hàm há xệ xuống. Bởi vì đó kia, giữa những hình thù và màu sắc chuyển động không ngừng, một hình nhân đang dần hình thành. Đầu tiên là mọt chiếc áo chẽn màu xanh lục, rồi tới khuôn mặt da màu ô-liu nhưng chưa rõ thành nét hay đặc điểm gì hiện ra bên dười làn mây của mái tóc nâu vàng. Từ từ, trong khuôn hình ô-van của gương mặt, hai con mắt màu xanh lá cây đậm phòi ra – chúng hình như đang chĩa thẳng vô Dagbert và, dưới ánh nhìn dữ tợn, có sức khống chế đó, nó thấy chân mình đang nhúc nhích về phía tấm gương. Thề nhưng khoảnh khắc đắc thắng của mụ Tilpin bị cướp mất bởi một tiếng ình chói tao. Cánh cửa gỗ mụ thình lình đổ ập và một thằng bé tóc trắng nhỏ tẹo đổ nhào vô phòng. Nó nằm vập mặt trên tấm ván gãy, và tất cả mọi người trố mắt nhìn nó, không thốt nên lời, cho tới khi mụ Tilpon tìm lại được giọng.
“Billy Raven! Gián điệp!” mụ thét rầm.
“Tên rình mò!” Joshua gào.
“Đồ hớt lẻo nghe lén!” Dorcas hùa tiếp.
“Thằng chó mũi!” hai đứa sinh đôi đồng thanh.
“Sao mày tìm được bọn tao, Billy?” Dagbert hỏi khi vừa rùng mình thoát khỏi ánh nhìn màu xanh lá cậy đậm.
Billy Raven lồm cồm đứng dậy, lọng cọng vừa tìm mắt kính vừa nói, “Em đang tìm con chó của em.”
“Con May Phúc già khú ghẻ lở,” Joshua gằn giọng.
Mụ Tilpin đặt tấm gương rất nhẹ xuống bàn và bước tới chỗ Billy. “Sao mày không ở nhà Charlie Bone?” mụ hỏi với giọng lạnh tanh.
“Anh ấy quên hỏi em,” Billy xịt mũi, rút một cái dằm ra khỏi lòng bàn tay.
“Quên,” mụ Tilpin nói. “Vậy là không tử tế. Ta tưởng nó là bạn của mày.”
“Anh ấy là bạn,” Billy lí nhí, “nhưng thỉnh thoảng anh ấy bận.”
“Ối! Billy tội nghiệp,” Dorcas ỉ ôi.
Billy chu mỏ, lén liếc nhanh về phía cái bàn. Một làn mây giống như hơi nước màu xanh lá cây đang bay cuồn cuộn khỏi tấm gương lên phía trần nhà ẩm thấp. Tất cả mọi người quay qua nhìn theo ánh mắt của nó, ai nấy mắt chữ O mồm chữ A.
“Đó là gì thế?” Billy thắc mắc.
Mụ Tilpin chắp hai tay vào nhau, lộ vẻ sung sướng vô ngần. “Billy Raven, đó là một thông điệp từ tổ tiên của ta. Dường như mày vừa mới làm ngài ấy thất vọng.”
“Em?” Cái cảm giác lạnh buối chạy dọc sống lưng Billy không liên quan gì đến nhiệt độ trong căn phòng của mụ Tilpin. Cảnh tượng làn hơi nước màu xanh lá cây làm nó khiếp hãi, đến nỗi không nghe được tiếng gỗ kêu rắc rắc khi có ai đó bước qua cánh cửa sụp.
Thình lình vai Billy bị tóm chặt từ đằng sau và thằng bé kêu hốc lên bạt vía.
“Mày làm gì ở đây?” Manfred Bloor xoay người thằng bé về phía hắn. “Sao mày không ở nhà Charlie Bone?”
Billy nhìn vào đôi mắt đen hung ác đang găm xuống mình. Nó luôn rờn rợn Manfred Bloor – với gương mặt xương xẩu và đôi vai hẹp, trông hắn như một ông già hơn là một thanh niên mười chin tuổi. Mái tóc dài cột đuôi ngựa đã điểm những sợ xám, và cái áo lạnh màu đen bó cứng hắn mặc chỉ càng nhấn mạnh thêm bộ khung gầy nhẳng của hắn.
“Hả?” Manfred gừ.
“Anh... anh ấy không hỏi,” Billy ấp úng.
“Không hỏi. Đó không phải là lý do.” Manfred khinh khỉnh liếc nhìn đám nhóc ngồi quanh chiếc bàn và khi nhận ra Dagbert hắn liền nhếch ra nửa cái cười.
Trong lúc đó làn hơi nước màu xanh lá cây chỉ còn lại một sợi mây mỏng như mạng nhện, lở lửng hướng lên mái trấn lát gạch. Hình như Manfred không trông thấy nó. “Cút đi lũ nhóc!” hắn sủa. “Ta muốn nói chuyện riêng với bà Tilpin.”
Cả lũ đồng thanh “Vâng, thưa ngài Manfred” xong rồi Dorcas, hai chị em sinh đôi, Joshua thu dọn sách vở của chúng và tiển ra cửa. Dagbert không hó hé gì, nhưng cũng theo tụi kia. Khi cả bước qua đống gỗ vụn, đọt ngột nó quay phắt lại và mấp máy môi, “Bà ta muốn đưa một thầy bùa về đi rong trên thế giới này. Thầy nghĩ gì về việc đó, thầy Manfred?”
“Ta nghĩ đó là một ý tưởng xuất sắc,” Manfred đáp, kèm theo một trong những kiểu cười độc địa của hắn.
“Thật à?” Dagbert nhướng lông mày lên rồi bước ra hành lang tối.
“Cả mày nữa,” Manfred bảo thằng bé tóc trắng, hình như đáng bị thôi miên.
Billy giật nảy mình. Nó ngó dáo dác căn phòng như thể không biết làm sao mà mình lại ở đó, rồi lê bước qua khung cửa.
“Bảo gã Weedon đến sửa cánh cửa mày đã làm đổ,” mụ Tilpin gọi với theo thằng nhỏ.
“Vâng,” Billy nói ỉu xỉu.
Manfred nhặt hai mẩu ván lên gác chéo qua khoảng trống gió lùa. Phủi hai tay cho sạch bụi, hắn đến ngồi xuống bàn. “Rất đáng hài lòng,” hắn nói, cười ngoác để lộ ra một hàm răng dài vàng ệch.
“Anh có vẻ mãn nguyện về mình đấy,” mụ Tilpin nhận xét.
“Ồ đúng thế, Titania. Bà không nhận ra sao?”
“Nhận ra cái gì?” xem ra mụ Tilpin đáng quan tâm đến gương mặt của mụ hơn bất kỳ lời nào Manfred nói.
“Nó đang trở lại,” Manfred bấu chặt lấy cạnh bàn và chồm người tới trước. “Tài phép của tôi, Titania. Nhớ không, bà đã nói là nó sẽ trở lại nếu tôi kiên nhẫn. Bà đã nói, “Hãy thư giãn, cứ cố gắng nhưng đừng bắt ép nó’. Ồ, tôi vừa mới thôi miên Billy Raven xong. Bà không nhận ra sao?”
“Ta nghĩ vậy.” Mụ Tilpin chau mày vào tấm gương, lẩm bẩm, “Ngài không vui.”
“Khi lũ báo tấn công tôi, tôi đã nghĩ thế là mình tiêu đời rồi, nhưng giờ thì tình thế đã đảo ngược. Tôi mạnh hơn bao giờ hết.” Manfred giang rộng đôi cánh tay khẳng khiu dài thượt ra.
“Ta nghĩ đó là sự giận dữ,” mụ Tilpin nói, vẫn không rời mắt khỏi tấm gương, “Cơn giận dữ và nỗi sợ hãi, hai yếu tố hùng mạnh. Chúng có thế tạo đường dẫn cho những sức mạnh còn nằm ngủ yên trong chúng ra.”
“Thế ư?” Manfred nhíu mày với tấm gương. “Chuyện gì đang diễn ra thế, Titania?”
Ánh mắt vẫn dán chặt vô tấm gương, mụ Tilpin lầm bầm, “Ngài đang chờ thằng bé bạch tạng. Ta chưa cho phép anh sử dụng tên của ta để gọi ta.”
Manfred nhún vai, “Xin lỗi, Fairy Tilpin, nhưng cái tên đó rất hợp với bà.”
Mụ Tilpin nhăn mặt. Mụ không bao giờ biết cách nhận lời khen. “Ta cảm thấy ngài đang tức giận, ngay ở đây.” Bỗng mụ tự đấm thật mạnh vô bụng mình. “Ngài muốn Billy vào hôm nay. Khi Eustacia Yewbeam mang bức tranh đi, mụ đã bảo đảm với ta là thắng bé bạch tạng sẽ ở nhà Charlie mà.”
“Có gì vội vã thế?” Chúng tôi bảo đảm chắc chắn thằng bé đó sẽ nhìn vô bức tranh vào thứ Bảy tuần sau. Rồi nó sẽ nói chuyện với con chó cà bá tước Harken sẽ bắt được nó.”
“Con chó đó còn lâu mới cầm cự được một tuần,” mụ Tilpin cáu kỉnh. “Bọn quỷ lùn ăn thịt chó, anh biết đấy.”
“Khổ nó chưa.”
Mụ Tilpin dặm chậm. “Này, đừng có bông phèng. Anh quên Thầy Bùa làm việc này là vì anh à? Ngài đã hứa sẽ giữ thằng bé ở lại cho đến khi bản di chúc mắc toi kia được tìm thấy và được hủy bỏ. Anh thử tưởng tượng coi cái gì sẽ xảy ra nếu Lyell Bone trở lại và nhớ ra bản di chúc được cất giữ ở đâu. Trò chơi sẽ kết thúc, Manfred Bloor. Billy Raven sẽ thừa kế tất cả mọi thứ. Nhớ đấy: “tòa nhà này, tòa lâu đài cổ xưa, thậm chí cả những của cải giấu bên dưới giường của lão Ezekiel.”
Manfred tắt ngúm nụ cười và vẻ mặt trở về lạnh lùng ma mãnh, mụ Tilpin bất giác áp chặt tấm gương vào ngực, như thể cái hình hài màu xanh là cây đang lợn gợn trong mặt gương có thể bảo vệ mụ khỏi tia nhìn chết chóc của gã thanh niên.
“Lyell Bone sẽ không bao giờ trở lại,” Manfred rít chịt. “Bọn ta cứ chờ đi rồi thấy.”